1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2018 ước tính tăng 7,38% so với cùng kỳ năm trước, đây là mức tăng cao nhất của quý I trong 10 năm gần đây[1], khẳng định tính kịp thời và hiệu quả trong việc Chính phủ ban hành các giải pháp và chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện ngay từ những ngày đầu, tháng đầu của năm 2018. Trong mức tăng 7,38% của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,05%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,70%, đóng góp 3,39 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,70%, đóng góp 2,75 điểm phần trăm.
Trong khu vực vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành nông nghiệp tăng 3,76% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn mức tăng của quý I các năm 2011-2017[2], đóng góp 0,31 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung, cho thấy xu hướng chuyển đổi cơ cấu sản phẩm trong nội bộ ngành theo hướng đầu tư vào những sản phẩm có giá trị kinh tế cao đã mang lại hiệu quả; ngành lâm nghiệp tăng 5,03%, do chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 4,76%, đạt mức tăng trưởng cao nhất trong 8 năm trở lại đây[3], đóng góp 0,12 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 10,08% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 3,01 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Điểm sáng của khu vực này là sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng 13,56% (mức tăng cao nhất trong 7 năm gần đây[4]), đóng góp đáng kể vào mức tăng trưởng chung với 2,46 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng quý I năm nay đã đạt mức tăng trưởng dương với 0,40% sau hai năm liên tục giảm[5], đóng góp 0,03 điểm phần trăm do khai thác than, kim loại và khí đốt tăng so với cùng năm trước. Ngành xây dựng 3 tháng đầu năm tăng 7,46%, thấp hơn so với tốc độ tăng 8,60% của cùng kỳ năm 2016 và 7,60% của cùng kỳ năm 2017, đóng góp 0,38 điểm phần trăm vào mức tăng chung.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 7,45% so với cùng kỳ năm trước, là ngành có đóng góp cao nhất vào mức tăng trưởng chung với 0,79 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống có mức tăng trưởng khá cao 7,60% so với mức tăng 6,03% của quý I/2017, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,72%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 3,56%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm.
Về cơ cấu nền kinh tế quý I năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 10,34%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 35,26%; khu vực dịch vụ chiếm 43,77%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,63% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2017 là: 11,19%; 34,14%; 43,92%; 10,75%).
Xét về góc độ sử dụng GDP quý I, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,13% so với cùng kỳ năm 2017, đóng góp 5,04 điểm phần trăm vào mức tăng chung (trong đó tiêu dùng cuối cùng của hộ dân cư tăng 7,15%, đóng góp 4,65 điểm phần trăm); tích lũy tài sản tăng 6,46%, đóng góp 1,15 điểm phần trăm; chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở tình trạng xuất siêu làm tăng 1,19 điểm phần trăm của mức tăng trưởng chung.
2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
a. Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng Ba, cả nước đã gieo trồng được 3.063,2 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 99,4% cùng kỳ năm trước, bao gồm: Các địa phương phía Bắc đạt 1.091,2 nghìn ha, bằng 97,9%; các địa phương phía Nam đạt 1.972,0 nghìn ha, bằng 100,2%, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.573,7 nghìn ha, giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Đến nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 681,6 nghìn ha lúa đông xuân cho thu hoạch, chiếm 43,3% diện tích xuống giống và chỉ bằng 72,9% cùng kỳ năm 2017; sản lượng ước tính đạt gần 10,3 triệu tấn, tăng 388,8 nghìn tấn so với vụ đông xuân trước; năng suất ước tính đạt 65,3 tạ/ha, tăng 2,7 tạ/ha.
Đến thời điểm trên các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cơ bản hoàn tất thu hoạch lúa vụ mùa 2017-2018. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, diện tích gieo trồng toàn vùng đạt 197,3 nghìn ha, tăng 9,3 nghìn ha so với vụ lúa mùa trước; năng suất ước tính đạt 46,1 tạ/ha, tăng 7,4 tạ/ha; sản lượng đạt 909,6 nghìn tấn, tăng 182,8 nghìn tấn.
Tính đến giữa tháng Ba, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 321,1 nghìn ha ngô, bằng 94,1% cùng kỳ năm trước; 66,8 nghìn ha khoai lang, bằng 101,4%; 108,8 nghìn ha lạc, bằng 102,5%; 13,3 nghìn ha đỗ tương, bằng 53,4%; 526,1 nghìn ha rau đậu, bằng 99%.
Chăn nuôi gia súc trong quý I/2018 gặp khó khăn do ảnh hưởng của đợt rét đậm, rét hại kéo dài từ tháng Một đến đầu tháng Hai[6]. Đàn trâu cả nước tháng Ba ước tính giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò tăng 2,8%; đàn lợn giảm khoảng 6,2% do giá thịt lợn hơi giảm từ thời điểm sau Tết Nguyên đán, người nuôi không có lãi nên quy mô đàn giảm mạnh; đàn gia cầm tăng 6,6%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng quý I/2018 tăng 0,6% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò hơi xuất chuồng tăng 3,2%; thịt gia cầm hơi xuất chuồng tăng 6,8%; riêng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng giảm 1,2%.
b. Lâm nghiệp
Trong quý I/2018, diện tích rừng trồng tập trung cả nước ước tính đạt 29,1 nghìn ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 16,4 triệu cây, tăng 2,1%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1.928 nghìn m3, tăng 7,8%; sản lượng củi khai thác đạt 6,9 triệu ste, tăng 0,7%.
Trong 3 tháng đầu năm, diện tích rừng bị thiệt hại là 194,5 ha, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích rừng bị cháy là 53,2 ha, giảm 45,5%; diện tích rừng bị chặt phá là 141,3 ha, tăng 37,6%.
c. Thủy sản
Sản lượng thủy sản 3 tháng đầu năm ước tính đạt 1.386,4 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 1.035,1 nghìn tấn, tăng 4,6%; tôm đạt 128,5 nghìn tấn, tăng 6,5%; thủy sản khác đạt 222,8 nghìn tấn, tăng 2%.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng quý I/2018 ước tính đạt 610,8 nghìn tấn, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 441,8 nghìn tấn, tăng 5,8%; tôm đạt 93,7 nghìn tấn, tăng 7,9%. Diện tích nuôi cá tra công nghiệp quý I/2018 ước tính đạt 3,9 nghìn ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng cá tra đạt 222,2 nghìn tấn, tăng 5,7%. Sản lượng tôm sú quý I ước tính đạt 41,2 nghìn tấn, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt 40,9 nghìn tấn, tăng 9,1%.
Sản lượng thủy sản khai thác 3 tháng đầu năm ước tính đạt 775,6 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 593,3 nghìn tấn, tăng 3,8%; tôm đạt 34,8 nghìn tấn, tăng 2,7% (sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 740,8 nghìn tấn, tăng 3,2%, trong đó cá đạt 569,3 nghìn tấn, tăng 3,9%; tôm đạt 31,9 nghìn tấn, tăng 2,2%).
3. Sản xuất công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng Ba ước tính tăng 8,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 11,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 8,3%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,1%; khai khoáng giảm 3,6%. Tính chung quý I năm 2018, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều mức tăng cùng kỳ các năm gần đây[7]. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục tăng trưởng cao 13,9%[8] (với trụ cột chính là ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính, sản phẩm quang học và sản xuất kim loại), đóng góp 10,5 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng trưởng ổn định ở mức 10,5%, đóng góp 0,9 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,1%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 0,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.
Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 3 tháng đầu năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào mức tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 29,3%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 22,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 17,9%; sản xuất kim loại tăng 14%; dệt tăng 13,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 12,8%. Một số ngành có mức tăng thấp hoặc giảm: Khai thác than cứng và than non tăng 2,9%; sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic và sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế cùng tăng 2%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 1,9%; sản xuất thuốc lá tăng 1,5%; khai khoáng khác (đá, cát, sỏi…) tăng 1,1%; hoạt động dịch vụ hỗ trợ khai thác mỏ tăng 0,8%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 0,5% (khai thác dầu thô giảm 7,9% và khai thác khí đốt tự nhiên tăng 7,5%); chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa giảm 3,4%.
Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I năm 2018 tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2017. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 31/3/2018 ước tính tăng 6,4% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 13,5% so cùng thời điểm năm trước; tỷ lệ tồn kho bình quân quý I là 68,2%.
4. Hoạt động của doanh nghiệp
a. Tình hình đăng ký doanh nghiệp[9]
Trong quý I năm nay, cả nước có 26.785 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 278,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% về số doanh nghiệp và tăng 2,7% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017[10]; vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới đạt 10,4 tỷ đồng, tăng 1,5%. Nếu tính cả 485,5 nghìn tỷ đồng của gần 7,9 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn thì tổng số vốn bổ sung vào nền kinh tế trong quý I/2018 là 764 nghìn tỷ đồng. Bên cạnh đó, còn có 8.449 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 8,9% so với cùng kỳ năm trước, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong quý I lên hơn 35,2 nghìn doanh nghiệp. Tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong quý I là 225,4 nghìn người, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm 2017.
Số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong quý I năm nay là 20.337 doanh nghiệp, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 12.222 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 22,9% và 8.115 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể, giảm 24,1%. Số doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong quý I năm 2018 là 3.321 doanh nghiệp, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 3.038 doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91,5%.
b. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra về xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2018 cho thấy: Có 33% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý I năm nay tốt hơn quý trước; 24,6% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn và 42,4% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định. Dự kiến quý II so với quý I năm nay, có 55,7% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 10,4% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 33,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.
5. Hoạt động dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2018 ước tính đạt 1.048 nghìn tỷ đồng, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 8,6% (cùng kỳ năm 2017 tăng 6,4%). Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa quý I năm nay ước tính đạt 792,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 75,6% tổng mức và tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 128,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,3% tổng mức và tăng 9%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 10,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 1% tổng mức và tăng 30,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt 116,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,1% tổng mức và tăng 5%.
Vận tải hành khách 3 tháng đầu năm ước tính đạt 1.049,8 triệu lượt khách, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước và 46,8 tỷ lượt khách.km, tăng 10%; vận tải hàng hóa đạt 391,5 triệu tấn, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước và 72,7 tỷ tấn.km, tăng 5,8%.
Doanh thu hoạt động viễn thông quý I/2018 ước tính đạt 96,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối tháng 3/2018, tổng số thuê bao điện thoại ước tính đạt 126,3 triệu thuê bao,giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thuê bao di động là 118,7 triệu thuê bao, giảm 0,8%[11]; thuê bao internet băng rộng cố định ước tính đạt 12,2 triệu thuê bao, tăng 27,5%.
Khách quốc tế đến nước ta trong quý I/2018 ước tính đạt 4.205,4 nghìn lượt người, tăng 30,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng không đạt 3.365,7 nghìn lượt người, tăng 27,9%; đến bằng đường bộ đạt 719,9 nghìn lượt người, tăng 53,6%; đến bằng đường biển đạt 119,8 nghìn lượt người, tăng 6,9%. Trong 3 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đến nước ta từ châu Á đạt 3.153,3 nghìn lượt người, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khách đến từ Trung Quốc đạt 1.356,4 nghìn lượt người, tăng 42,9%; Hàn Quốc 892,5 nghìn lượt người, tăng 69,2%); khách đến từ châu Âu ước tính đạt 645,8 nghìn lượt người, tăng 15,4%; khách đến từ châu Mỹ đạt 276,2 nghìn lượt người, tăng 11,5%; khách đến từ châu Úc đạt 119,1 nghìn lượt người, tăng 13,5%; khách đến từ châu Phi đạt 11,1 nghìn lượt người, tăng 25,7%.
6. Hoạt động ngân hàng, bảo hiểm
Tính đến thời điểm 20/3/2018, tổng phương tiện thanh toán tăng 3,23% so với cuối năm 2017 (cùng kỳ năm trước tăng 2,88%); huy động vốn của các ngân hàng thương mại tăng 2,20% (cùng kỳ năm trước tăng 2,43%); tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 2,23% (cùng kỳ năm trước tăng 2,81%).
Lãi suất huy động hiện nay khá ổn định. Lãi suất huy động bằng đồng Việt Nam phổ biến ở mức 0,6%-1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng; 4,3%-5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 5,3%-6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5%-7,3%/năm. Mặt bằng lãi suất cho vay phổ biến của các lĩnh vực ưu tiên ở mức 6%-6,5%/năm. Lãi suất cho vay các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường ở mức 6,8%-9%/năm đối với ngắn hạn; 9,3%-11%/năm đối với trung và dài hạn. Đối với nhóm khách hàng có tình hình tài chính minh bạch, lãi suất cho vay ngắn hạn từ 4%-5%/năm.
Thị trường bảo hiểm 3 tháng đầu năm duy trì tăng trưởng tích cực. Doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường quý I/2018 ước tính tăng 19% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 28%; doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ tăng 9%.
7. Đầu tư
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2018 theo giá hiện hành đạt khá với 331,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,2% GDP, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 104,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 31,6% tổng vốn và tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực ngoài Nhà nước đạt 138,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,9% và tăng 16,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 87,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 26,5% và tăng 8,1%.
Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện quý I/2018 tăng khá, ước tính đạt 48,7 nghìn tỷ đồng, bằng 14,4% kế hoạch năm và tăng 9,2% so với quý I/2017 (cùng kỳ năm trước tăng 3,6%), gồm có: Vốn trung ương quản lý đạt 9,6 nghìn tỷ đồng, bằng 14,6% kế hoạch năm và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; vốn địa phương quản lý đạt 39,1 nghìn tỷ đồng, bằng 14,3% kế hoạch năm và tăng 10,5%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến thời điểm 20/3/2018 thu hút 618 dự án cấp phép mới với số vốn đăng ký đạt 2.121,6 triệu USD, tăng 25,4% về số dự án và giảm 27,3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017. Bên cạnh đó, có 199 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 1.789,9 triệu USD, giảm 54,6% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, tổng số vốn đăng ký cấp mới và vốn tăng thêm trong 3 tháng đạt 3.911,5 triệu USD, giảm 43% so với cùng kỳ năm 2017. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện 3 tháng ước tính đạt 3.888 triệu USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2017. Trong 3 tháng năm 2018 còn có 1.285 lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài với tổng giá trị vốn góp là 1.890,1 triệu USD, tăng 121,6% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó có 732 lượt góp vốn, mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị vốn góp là 1,34 tỷ USD và 553 lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ với giá trị 547,8 triệu USD.
Về đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài, trong quý I/2018 cả nước có 23 dự án được cấp mới giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đầu tư của phía Việt Nam là 123,6 triệu USD, bên cạnh đó có 5 dự án điều chỉnh vốn với số vốn tăng thêm là 25,9 triệu USD. Tính chung vốn cấp mới và tăng thêm, tổng vốn đầu tư Việt Nam ra nước ngoài trong quý I năm nay đạt 149,5 triệu USD, trong đó lĩnh vực tài chính, ngân hàng đạt 105 triệu USD, chiếm 70,2% tổng vốn đầu tư; lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 19,9 triệu USD, chiếm 13,3%; lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 12 triệu USD, chiếm 8%; lĩnh vực bán buôn, bán lẻ đạt 8,5 triệu USD, chiếm 5,7%.
8. Thu, chi ngân sách Nhà nước
Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2018 ước tính đạt 232,2 nghìn tỷ đồng, bằng 17,6% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 185,6 nghìn tỷ đồng, bằng 16,9%; thu từ dầu thô đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, bằng 29,9%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 35,8 nghìn tỷ đồng, bằng 20%.
Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/3/2018 ước tính đạt 225,9 nghìn tỷ đồng, bằng 14,8% dự toán năm, trong đó chi thường xuyên đạt 183 nghìn tỷ đồng, bằng 19,5%; chi đầu tư phát triển đạt 17,5 nghìn tỷ đồng, bằng 4,4% dự toán năm; chi trả nợ lãi 24,9 nghìn tỷ đồng, bằng 22,1%.
9. Xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ
a. Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I năm 2018 ước tính đạt 54,31 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 14,97 tỷ USD, tăng 18,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 39,34 tỷ USD, tăng 23,2%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu quý I tăng 22,1% so với cùng kỳ năm 2017.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực quý I năm nay vẫn duy trì tốc độ tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD, tăng 58,8%; hàng dệt may đạt 6,3 tỷ USD, tăng 12,9%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 6,3 tỷ USD, tăng 13,2%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 3,5 tỷ USD, tăng 22,3%; giày dép đạt 3,5 tỷ USD, tăng 10,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,1 tỷ USD, tăng 20,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,9 tỷ USD, tăng 8%; thủy sản đạt 1,7 tỷ USD, tăng 11,2%; rau quả đạt 950 triệu USD, tăng 35,6%; sắt thép đạt 949 triệu USD, tăng 43,3%. Một số mặt hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô đạt 509 triệu USD, giảm 21,1% (lượng giảm 36,5%); cao su đạt 408 triệu USD, giảm 19,8% (lượng tăng 10,5%); sắn và sản phẩm của sắn đạt 277 triệu USD, giảm 5,3% (lượng giảm 27,7%); hạt tiêu đạt 190 triệu USD, giảm 41,3% (lượng giảm 2%). Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực vẫn thuộc về khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm 99,7% kim ngạch hàng điện thoại và linh kiện; chiếm 90% kim ngạch máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng; chiếm 61% kim ngạch hàng dệt may.
b. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I năm 2018 ước tính đạt 53,01 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 21,26 tỷ USD, tăng 13,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 31,75 tỷ USD, tăng 13,7%. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu quý I/2018 tăng 12,8% so với cùng kỳ năm 2017.
Trong quý I năm nay, một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 10,3 tỷ USD, tăng 30,2%; điện thoại và linh kiện đạt 3,4 tỷ USD, tăng 17,2%; xăng dầu đạt 2,2 tỷ USD, tăng 37,1% (lượng tăng 20,1%); chất dẻo đạt 2,1 tỷ USD, tăng 21,5% (lượng tăng 13,8%); kim loại thường khác đạt 1,5 tỷ USD, tăng 19,9%; sản phẩm chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng 15,3%; sản phẩm hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, tăng 15,9%; hóa chất đạt 1,2 tỷ USD, tăng 22,9%.
Cán cân thương mại hàng hóa tính chung quý I/2018 xuất siêu 1,3 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 6,3 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 7,6 tỷ USD.
c. Xuất, nhập khẩu dịch vụ
Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ quý I năm 2018 ước tính đạt 3,9 tỷ USD, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2017, trong đó dịch vụ du lịch đạt 2,8 tỷ USD (chiếm 70,5% tổng kim ngạch), tăng 23,3%; dịch vụ vận tải đạt 700 triệu USD (chiếm 18%), tăng 8,5%. Kim ngạch nhập khẩu dịch vụ ước tính đạt 4,3 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dịch vụ vận tải đạt 2 tỷ USD (chiếm 46,6% tổng kim ngạch), tăng 11,1%; dịch vụ du lịch đạt 1,4 tỷ USD (chiếm 31,8%), tăng 9,2%. Nhập siêu dịch vụ quý I là 391 triệu USD, bằng 10% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ.
10. Chỉ số giá
a. Chỉ số giá tiêu dùng
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2018 giảm 0,27% so với tháng trước, trong đó 8/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm. Nhóm giao thông giảm 0,77% do thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ khu vực ASEAN giảm xuống 0% làm giá bán ô tô trong nước giảm theo; giá xăng dầu giảm 1,3% so với tháng trước[12] và giá vé ô tô khách, tàu hỏa giảm sau dịp tết Nguyên đán 2018. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,62% (lương thực tăng 0,35%; thực phẩm giảm 1,05%) do giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống giảm sau Tết Nguyên đán, làm CPI chung giảm 0,23%. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,28%, chủ yếu do các doanh nghiệp trong nước điều chỉnh giảm giá gas từ ngày 1/3/2018. Nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,28%; may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,17%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,09%; bưu chính viễn thông giảm 0,04%; hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,1%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá tăng: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 1,98% (dịch vụ y tế tăng 2,54%) do trong tháng có 9 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế cho đối tượng không có thẻ bảo hiểm y tế (tác động làm CPI chung tăng 0,1%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,02%; giáo dục tăng 0,01% (dịch vụ giáo dục tăng 0,01%).
CPI bình quân quý I năm 2018 tăng 2,82% so với bình quân cùng kỳ năm 2017. CPI tháng 3/2018 tăng 0,97% so với tháng 12/2017 và tăng 2,66% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản tháng 3/2018 giảm 0,09% so với tháng trước và tăng 1,38% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân quý I/2018 tăng 1,34% so với bình quân cùng kỳ năm 2017.
b. Chỉ số giá vàng và đô la Mỹ
Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới. Chỉ số giá vàng tháng 3/2018 giảm 0,35% so với tháng trước; tăng 3,18% so với tháng 12/2017 và tăng 5,97% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2018 tăng 0,27% so với tháng trước; tăng 0,22% so với tháng 12/2017 và giảm 0,09% so với cùng kỳ năm 2017.
c. Chỉ số giá sản xuất và chỉ số giá xuất nhập khẩu
Chỉ số giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu dùng cho sản xuất quý I/2018 tăng 2,11% so với quý IV/2017 và tăng 4,09% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý I/2018 tăng 1,18% và giảm 2,59%; chỉ số giá sản xuất công nghiệp tăng 0,79% và tăng 2,64%. Chỉ số giá sản xuất dịch vụ quý I/2018 tăng 1,04% so với quý IV/2017 và tăng 2,92% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá xuất khẩu hàng hoá quý I/2018 tăng 0,46% so với quý IV/2017 và giảm 0,05% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nhập khẩu hàng hoá quý I tăng 0,38% và tăng 0,76%. Tỷ giá thương mại hàng hóa[13] quý I năm nay tăng 0,07% so với quý IV/2017 và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm 2017.
11. Lao động, việc làm
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước đến thời điểm 1/4/2018 ước tính là 55,1 triệu người, tăng 586,8 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2017, bao gồm: Lao động nam 28,6 triệu người, chiếm 52%; lao động nữ 26,5 triệu người, chiếm 48%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên khu vực thành thị là 17,7 triệu người, chiếm 32,2%; khu vực nông thôn là 37,4 triệu người, chiếm 67,8%. Đến thời điểm trên, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính là 48,4 triệu người, tăng 497,3 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động nam 26,2 triệu người, chiếm 54,2%; lao động nữ 22,2 triệu người, chiếm 45,8%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành thị là 16,1 triệu người, chiếm 33,3%; khu vực nông thôn là 32,3 triệu người, chiếm 66,7%.
Lao động 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý I/2018 ước tính là 54,0 triệu người, bao gồm 20,9 triệu người đang làm việc ở khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 38,6% tổng số; khu vực công nghiệp và xây dựng 14,4 triệu người, chiếm 26,7%; khu vực dịch vụ 18,7 triệu người, chiếm 34,7%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2018 ước tính là 2,2%, trong đó khu vực thành thị là 3,13%; khu vực nông thôn là 1,73%[14]. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) quý I/2018 ước tính là 7,25%, trong đó khu vực thành thị là 11,47%; khu vực nông thôn là 5,63%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý I năm nay ước tính là 1,48%, trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 0,55%; tỷ lệ thiếu việc làm khu vực nông thôn là 1,94%. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức ngoài hộ nông, lâm nghiệp, thủy sản[15]quý I/2018 ước tính là 56,8%, trong đó khu vực thành thị là 48,3%; khu vực nông thôn là 63,8%.
12. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội
Đời sống dân cư những tháng đầu năm 2018 nhìn chung ổn định, thiếu đói trong nông dân giảm đáng kể so với cùng kỳ năm 2017. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, trong quý I, cả nước có 46,2 nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 39,5% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng với 173,2 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 44,5%. Để khắc phục tình trạng thiếu đói, từ đầu năm, các cấp, các ngành, các tổ chức từ Trung ương đến địa phương đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 4,6 nghìn tấn gạo.
Công tác an sinh xã hội được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện. Theo thống kê sơ bộ, trong quý I năm nay đã có 11,4 triệu thẻ bảo hiểm y tế, sổ/thẻ khám chữa bệnh được phát tặng miễn phí cho các đối tượng chính sách trên địa bàn cả nước.
13. Giáo dục, đào tạo
Theo báo cáo sơ bộ, năm học 2017-2018 cả nước có trên 712 nghìn trẻ em đi nhà trẻ, tăng 5,4% so với năm học 2016-2017; 4.588 nghìn học sinh mẫu giáo, tăng 4,1%; 15.882 nghìn học sinh phổ thông, tăng 2,4%, trong đó 8.015 nghìn học sinh tiểu học, tăng 2,7%; 5.361 nghìn học sinh trung học cơ sở, tăng 2,4% và 2.506 nghìn học sinh trung học phổ thông, tăng 1,2%. Số giáo viên nhà trẻ năm học 2017-2018 là 71,4 nghìn người, tăng 8,5% so với năm học trước; giáo viên mẫu giáo là 265 nghìn người, tăng 5,7%; giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy đạt 852,3 nghìn người, giảm 0,7%, trong đó giáo viên tiểu học 396,9 nghìn người, giảm 0,05%; giáo viên trung học cơ sở trên 305 nghìn người, giảm 1,9%; giáo viên trung học phổ thông 150,4 nghìn người, giảm 0,2%.
14. Tình hình dịch bệnh, ngộ độc thực phẩm
Trong 3 tháng đầu năm 2018, cả nước có hơn 4,5 nghìn trường hợp mắc bệnh tay chân miệng; 11,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết (1 trường hợp tử vong); 95 trường hợp mắc bệnh thương hàn; 85 trường hợp mắc bệnh viêm não vi rút (2 trường hợp tử vong); 53 trường hợp mắc bệnh ho gà; 27 trường hợp mắc bệnh liên cầu lợn ở người (3 trường hợp tử vong) và 502 người bị ngộ độc thực phẩm (3 người tử vong).
Tổng số người nhiễm HIV của cả nước hiện còn sống tính đến thời điểm 15/3/2018 là 209,3 nghìn người và số trường hợp đã chuyển sang giai đoạn AIDS là 90,4 nghìn người; số người tử vong do HIV/AIDS của cả nước tính đến thời điểm trên là 95,8 nghìn người.
15. Hoạt động văn hóa, thể thao
Trọng tâm của các hoạt động văn hóa 3 tháng đầu năm 2018 là các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân Mậu Tuất và sinh hoạt lễ hội truyền thống ở nhiều địa phương trên cả nước. Các hoạt động thông tin, tuyên truyền được tổ chức dưới nhiều hình thức, bảo đảm thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm; tạo không khí phấn khởi trong nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý lễ hội được quan tâm thực hiện nhằm phát huy tính tích cực của lễ hội dân gian và phù hợp với truyền thống văn hóa của dân tộc; tăng cường kiểm tra và kiên quyết xử lý những lễ hội có vi phạm, không đảm bảo an ninh trật tự, vệ sinh môi trường.
Phong trào thể thao quần chúng 3 tháng đầu năm diễn ra sôi nổi khắp các địa phương với nhiều hoạt động phong phú như tổ chức các trò chơi dân gian, các môn thể thao truyền thống, tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân, triển khai Chương trình bơi an toàn, phòng chống đuối nước trẻ em năm 2018. Thể thao thành tích cao tập trung chuẩn bị lực lượng tham dự các giải quốc tế quan trọng: Giải Bóng đá U23 Châu Á, giải vô địch xe đạp Châu Á, giải điền kinh trong nhà Châu Á, giải cúp lặn thế giới, chuẩn bị lực lượng động viên vận động viên tham dự Đại hội Thể thao người khuyết tật Châu Á (Asian Paragames) và chuẩn bị cho các giải thể thao quốc tế tổ chức tại Việt Nam.
16. Tai nạn giao thông
Trong 3 tháng đầu năm 2018, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 4.674 vụ tai nạn giao thông, bao gồm 2.396 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 2.278 vụ va chạm giao thông, làm 2.149 người chết, 1.220 người bị thương và 2.407 người bị thương nhẹ. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 3 tháng đầu năm nay giảm 2,9% (Số vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên giảm 2,3%; số vụ va chạm giao thông giảm 3,5%); số người chết tăng 1,7%; số người bị thương tăng 18,2% và số người bị thương nhẹ giảm 14,1%. Bình quân 1 ngày trong 3 tháng, trên địa bàn cả nước xảy ra 52 vụ tai nạn giao thông, gồm 27 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên và 25 vụ va chạm giao thông, làm 24 người chết, 14 người bị thương và 27 người bị thương nhẹ.
17. Thiệt hại do thiên tai, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ
Thiên tai xảy ra trong 3 tháng đầu năm đã làm 7 người bị thương, hơn 4,3 nghìn ha lúa và hoa màu bị hư hỏng, gần 8,3 nghìn con gia súc, gia cầm bị chết, hơn 2,7 nghìn ngôi nhà bị sập đổ và hư hỏng, tổng giá trị thiệt hại ước tính hơn 178 tỷ đồng, gấp 3,1 lần tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra trong quý I/2017.
Trong quý I/2018 đã phát hiện 4.260 vụ vi phạm môi trường trên địa bàn cả nước, trong đó xử lý 3.929 vụ với tổng số tiền phạt 55,7 tỷ đồng.
Tính chung 3 tháng đầu năm (từ ngày 16/12/2017 đến ngày 15/3/2018), trên địa bàn cả nước xảy ra 1.085 vụ cháy, nổ, làm 33 người chết và 66 người bị thương, thiệt hại ước tính theo báo cáo sơ bộ là hơn 413,2 tỷ đồng.
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
[1] Tăng trưởng GDP quý I của một số năm: Năm 2009 tăng 3,14%; năm 2010 tăng 5,84%; năm 2011 tăng 5,90%; năm 2012 tăng 4,75%; năm 2013 tăng 4,76%; năm 2014 tăng 5,06%; năm 2015 tăng 6,12%; năm 2016 tăng 5,48%; năm 2017 tăng 5,15%; năm 2018 tăng 7,38%.
[2] Tốc độ tăng trưởng quý I của ngành nông nghiệp lần lượt là: năm 2011 tăng 3,65%; năm 2012 tăng 2,66%; năm 2013 tăng 2,01%; năm 2014 tăng 2,03%; năm 2015 tăng 1,58%; năm 2016 giảm 2,69%; năm 2017 tăng 1,38%.
[3] Mức tăng quý I của ngành thủy sản một số năm: Năm 2011 tăng 2,87%; năm 2012 tăng 4,06%; năm 2013 tăng 2,28%; năm 2014 tăng 4,72%; năm 2015 tăng 3,38%; năm 2016 tăng 1,90%; năm 2017 tăng 3,76%; năm 2018 tăng 4,76%.
[4] Mức tăng quý I của ngành chế biến, chế tạo một số năm: Năm 2012 tăng 8,74%; năm 2013 tăng 4,38%; năm 2014 tăng 5,97%; năm 2015 tăng 9,70%; năm 2016 tăng 8,94%; năm 2017 tăng 8,60%; năm 2018 tăng 13,56%.
[5] Tốc độ tăng trưởng quý I của ngành khai khoáng: Năm 2016 giảm 0,2%; năm 2017 giảm 10%.
[6] Số lượng gia súc bị chết tại một số tỉnh miền núi phía Bắc: Điện Biên 2.308 con; Cao Bằng 1.590 con; Yên Bái 1.264 con; Lào Cai 1.022 con; Lạng Sơn 301 con; Hà Giang 273 con.
[7] Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp quý I: năm 2015 tăng 9,3%; năm 2016 tăng 8,2% và năm 2017 tăng 5,1%.
[8] Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý I: năm 2015 tăng 9,5%; năm 2016 tăng 9,1% và năm 2017 tăng 7,8%.
[9] Nguồn: Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
[10] Quý I năm 2017, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước; số vốn đăng ký tăng 45,8%; vốn đăng ký bình quân 1 doanh nghiệp tăng 30,9%.
[11] Chủ yếu do các nhà mạng thực hiện thu hồi sim rác theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.
[12] Làm CPI chung giảm 0,06%
[13] Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa so với chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa.
[14] Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi quý I/2017 là 2,3%, trong đó khu vực thành thị là 3,24%; khu vực nông thôn là 1,83%.
[15] Lao động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp bao gồm những người không làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản và thuộc một trong ba nhóm sau: (i) người làm công ăn lương thuộc khu vực chính thức không được ký hợp đồng lao động hoặc có hợp đồng có thời hạn nhưng không được cơ sở tuyển dụng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc; lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực chính thức và thành viên hợp tác xã không có bảo hiểm xã hội bắt buộc; (ii) chủ cơ sở, lao động tự làm, lao động làm công ăn lương và lao động gia đình tại cơ sở thuộc khu vực phi chính thức; (iii) lao động tự làm phục vụ nhu cầu tự tiêu dùng của hộ gia đình và lao động làm thuê trong các hộ gia đình.